Chính sách mới ưu đãi Doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Nghị định số 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 20/3/2019, thay thế Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP và Điều 20 Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2014 của Chính phủ.
 

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP kỳ vọng sẽ giải quyết được những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN thời gian qua, khuyến khích khu vực doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu thuộc mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội phát triển theo mô hình doanh nghiệp KH&CN.

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP đã thể chế hóa được định hướng của Quốc hội và Chính phủ coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với hàng loạt các giải pháp quan trọng như đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đăng ký công nhận doanh nghiệp KH&CN, chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm trong việc đánh giá hồ sơ đăng ký, cụ thể hóa quy trình thủ tục tiếp cận chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đăng ký công nhận doanh nghiệp KH&CN... Cụ thể:

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP đã giảm bớt các điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KH&CN không cần thiết, gây khó khăn cho doanh nghiệp như: đơn giản hóa việc chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp đối với kết quả KH&CN bằng quy định doanh nghiệp có thể tự cam kết về quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với kết quả KH&CN và có thể bị hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận nếu bị cơ quan có thẩm quyền kết luận có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; thay vì phải giải trình về việc hoàn thành quá trình ươm tạo và làm chủ công nghệ từ kết quả KH&CN mà chú trọng vào việc đánh giá tính ứng dụng của sản phẩm; khuyến khích doanh nghiệp có kết quả nghiên cứu thuộc mọi lĩnh vực KH&CN đều có thể chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.

Hướng dẫn Điều 58 Luật khoa học và công nghệ 2013, Nghị định mới đã bổ sung điều kiện về tỷ lệ doanh thu 30% từ kết quả KH&CN làm điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KH&CN. Điều kiện này đảm bảo khi được cấp giấy chứng nhận, doanh nghiệp KH&CN sẽ được hưởng ngay lập tức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhằm tích tụ được nguồn vốn để đầu tư phát triển. Đồng thời để khuyến khích các doanh nghiệp mới khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể chứng nhận doanh nghiệp KH&CN nhằm hỗ trợ thuận lợi cho quá trình nghiên cứu phát triển và thương mại hóa công nghệ mới, Nghị định đã bổ sung quy định: đối với doanh nghiệp mới thành lập dưới 5 năm, không cần đáp ứng điều kiện về tỷ lệ doanh thu để được chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.

Nghị định 13/2019/NĐ-CP đã giảm thời gian cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN từ 30 ngày làm việc xuống còn tối đa 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của doanh nghiệp.

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP cũng đã giải quyết được những vấn đề bức xúc mà các địa phương kiến nghị trong thời gian qua: Bổ sung thẩm quyền của cơ quan trung ương trong việc chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, chia sẻ trách nhiệm xử lý những hồ sơ phức tạp với địa phương để đảm bảo rút ngắn thời gian cấp chứng nhận cho doanh nghiệp KH&CN, đặc biệt trong một số lĩnh vực công nghệ mới, phức tạp, sản phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường,..

Điểm nổi bật của Nghị định số 13/2019/NĐ-CP đó là các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN đồng bộ, thống nhất với pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, đầu tư, đất đai và tín dụng đầu tư, như vậy về cơ bản các chính sách ưu đãi, hỗ trợ sẽ đảm bảo tính khả thi, từ đó tạo lập môi trường thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp KH&CN phát triển.

Nghị định 13/2019/NĐ-CP đã có nhiều sửa đổi khắc phục những khó khăn của doanh nghiệp trong việc tiếp cận chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian qua, đảm bảo sự thống nhất đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp luật chuyên ngành về thuế. Cụ thể:

- Quy định rõ các ưu đãi về thuế TNDN mà doanh nghiệp KH&CN được hưởng, thống nhất các cách hiểu không thống nhất trong việc thi hành Nghị định 80/2007/NĐ-CP, Nghị định 96/2010/NĐ-CP, Nghị định 95/2014/NĐ-CP. Các doanh nghiệp KH&CN được cấp giấy chứng nhận từ ngày 20/3/2019 trở đi sẽ được miễn thuế 04 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh kết quả KH&CN.

- Giảm điều kiện tỷ lệ doanh thu để hưởng ưu đãi thuế: Trước đây doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng điều kiện tỷ lệ doanh thu 30% trong năm thứ nhất, 50% trong năm thứ hai và 70% từ năm thứ ba trở đi mới được hưởng ưu đãi về thuế TNDN. Điều này dẫn đến rất ít doanh nghiệp được hưởng. Nghị định mới đã giảm điều kiện hưởng thuế TNDN xuống tỷ lệ 30%, giúp nhiều doanh nghiệp tiếp cận được chính sách ưu đãi quan trọng này.

- Bổ sung quy định về việc xác định dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và thẩm quyền xác định để hỗ trợ doanh nghiệp có kết quả nghiên cứu mới hưởng ưu đãi về thuế TNDN.

Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục, hồ sơ hưởng ưu đãi thuế TNDN đối với dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, như trường hợp của Công ty TNHH Minh Long I (Bình Dương). Với Nghị định mới được ban hành: hướng dẫn cách xác định tiêu chí dự án đầu tư mới, quy định thẩm quyền xác định dự án đầu tư mới và trách nhiệm các cơ quan trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, khó khăn của những doanh nghiệp tương tự như Minh Long I sẽ được giải quyết.

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP đã quy định cụ thể hơn về các ưu đãi tín dụng, ưu đãi đất đai dành cho doanh nghiệp KH&CN; bổ sung trách nhiệm của cơ quan chuyên môn về KH&CN địa phương trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện thủ tục miễn giảm tiền thuê đất; bổ sung các hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả KH&CN của doanh nghiệp KH&CN như: được sử dụng quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp và được hỗ trợ từ các chương trình hỗ trợ của Nhà nước để thực hiện dự án thương mại hóa, được ưu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ, trách nhiệm của Bộ ngành trong việc xây dựng quy chuẩn kỹ thuật để cấp phép lưu hành sản phẩm,…; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN.

Nghị định cũng quy định rõ trách nhiệm báo cáo, cập nhật về tình hình phát triển doanh nghiệp KH&CN, quy định rõ cơ chế hậu kiểm, thu hồi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận khi doanh nghiệp không còn đáp ứng điều kiện hoặc có hành vi vi phạm pháp luật, vinh danh các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong hoạt động nghiên cứu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu./.